Thông số kỹ thuật Một Chỉ Dẫn Cho Người Bị Bối Rối - Nhà xuất bản Tri thức - Sách Triết học
Tác giả: E. F. Schumacher
Dịch giả: Nguyễn Văn Trọng
Số trang: 352 trang
Khổ sách: 12x20 cm
Loại sách: bìa mềm, tay gập
Nội dung:
Tác phẩm Một chỉ dẫn cho người bị bối rối đề cập đến trạng thái tinh thần bối rối hoang mang của con người hiện đại do bị nhào nặn bởi một thế giới quan lầm lạc mà ông gọi là chủ nghĩa khoa học duy vật luận (materialistic Scientism). Theo Schumacher, bước ngoặt tinh thần này của con người hiện đại xảy ra vào thời kì Khai sáng ở phương Tây trong một quá trình đoạn tuyệt với tôn giáo nói chung và với Kitô giáo nói riêng. Schumacher đã lần lại lịch sử quan niệm về tôn giáo của con người thời cổ đại. Ông cho thấy các tôn giáo truyền thống đã bị con người thời hiện đại hiểu sai lệch như thế nào.
Theo Schumacher thì việc đoạn tuyệt với Kitô giáo xảy ra ở xã hội phương Tây vào thời kì Khai sáng, do ảnh hưởng sâu sắc bởi triết gia Descartes (1596-1650). Descartes cho rằng: “Người nào tìm kiếm con đường trực tiếp đi đến sự thật, thì phải không bận tâm với bất cứ đối tượng nào mà người đó không có được một tính chắc chắn ngang bằng với những chứng minh của số học và hình học”. Chỉ những đối tượng như vậy mới phải thu hút sự chú ý của chúng ta “đến với tri thức chắc chắn và không chút nghi ngờ mà các sức mạnh trí tuệ của chúng ta hình như thích đáng tương xứng”. Descartes viện cớ rằng triết học “đã được trau dồi trong nhiều thế kỉ bởi những trí tuệ tốt đẹp nhất đã từng sống, mặc dù vậy vẫn chẳng có một sự vật nào được tìm thấy mà lại không là đề tài tranh cãi, và hệ lụy là không còn bị nghi ngờ nữa”, sự kiện ấy đã dẫn Descartes đến với điều chẳng khác gì là “cuộc thối lui khỏi minh triết” và hoàn toàn tập trung vào tri thức thật vững chắc và nằm ngoài mọi nghi ngờ giống như toán học và hình học.
Giá sản phẩm trên Tiki đã bao gồm thuế theo luật hiện hành. Bên cạnh đó, tuỳ vào loại sản phẩm, hình thức và địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh, thuế nhập khẩu (đối với đơn hàng giao từ nước ngoài có giá trị trên 1 triệu đồng).....
Minh Tran
VỀ MỘT CHỈ DẪN CHO NGƯỜI BỊ BỐI RỐI E. F. SCHUMACHER Với nỗ lực lập bản đồ cho những thứ mà chủ nghĩa duy vật luận đã bỏ qua, Schumacher đã lập luận tương đối tốt cho cuốn sách của mình, song màu sắc của Chủ nghĩa Lãng Mạn Đức và một không khí chiết trung tôn giáo vẫn tồn tại như một nhược điểm không tránh khỏi. Có rất nhiều phần khiến cuốn sách đáng được học hỏi. Giọng văn khúc chiết và lập luận sắc bén của Schumacher khiến cho các vấn đề vẫn bị giấu đi lâu nay dưới cái mác khoa học được phơi ra tỏ tường: sự phân biệt rạch ròi giữa các khoa học và mục đích và phương pháp luận của nó, vị thế của các khoa học chính xác đối với niềm tin của con người, những thành tựu của nó đã đổi lấy một thế giới tràn đầy bầu không khí có Ý Nghĩa, yêu chuộng Thiện Tính lấy một thế giới tiện lợi hơn về những nhu cầu cơ bản của động vật nhưng hoàn toàn mất định hướng với những nhu cầu hướng thượng. Quả thực khoa học chính xác -đo đạc được những thứ không-sống, tái tạo được các kết quả theo hướng dẫn dựa trên những môi trường nhân tạo nghiêm ngặt và có thể đại chúng hóa đã khiến thẩm quyền của nó trở nên cao cả đến nỗi biến thành một tín điều và khoa học miêu tả, trong nỗ lực bằng anh bằng em của nó, không thể chịu nổi sự không tiến bộ mấy của mình, đã cố khái quát một vài thứ theo cách thức phi lý, ngụy khoa học: Luận thuyết tiến hóa. Tuy vậy, tôi nghĩ ngay từ đầu mục tiêu của khoa học không là gì khác ngoại trừ tìm hiểu về sự thực thông qua lý trí thuần túy, chính vì thế mà nó đã đi tìm giới hạn cho nó, theo kiểu tư duy Descartes. Có thể nói bản thân khoa học chỉ là một tập hợp các kỹ thuật tư duy và các phương pháp làm việc, nó không có mục đích - trong ý nghĩa mục đích hướng thượng. Nó không có mục tiêu của tôn giáo hay triết học, nó không việc gì phải vơ vào mình thứ đó, bởi những thứ đó quả thực khiến cho mọi lý trí phải quy hàng - không có nghĩa là chúng không có lý, mà bởi cái lý ấy vượt quá khả năng xử lý của một con người bị giới hạn trong các giác quan thể lý của mình, như chữ được dùng trong sách: không thích đáng tương xứng, nghĩa là con người (có thể bởi vì chưa qua rèn luyện) chưa có được các cơ quan thích đáng với những hiện thực khác những hiện thực được kinh nghiệm thông qua các giác quan hiện tại, nhưng có những bằng chứng cho thấy có một vài cá thể (có thể đã qua rèn luyện) đã tiếp cận được những hiện thực khác giàu ý nghĩa hơn. Vậy thì hướng đi của khoa học với mục đích tìm hiểu bản chất của các vật thể, biến đổi chúng và tái tạo chúng là những gì mà bất-kỳ-ai, thông qua suy xét lý tính và giới hạn các nghiên cứu đối với các vật thể có thể tìm biết. Ở đây nó đã thành công. Không ai ngờ rằng nó lại kéo theo những hệ quả mang tính triết học hay tôn giáo: nó trở nên có thẩm quyền tuyệt đối trong việc nói lên mọi thứ, nhận xét mọi thứ, dẫn dắt mọi thứ trong xã hội loài người. Trong khi nó không thực sự có thẩm quyền đó, không có mục đích đó. Khoa học không được tạo ra để dẫn dắt: nó không trả lời cho những câu hỏi mà triết học và tôn giáo đã ưu tư, rằng làm thế nào để sống hạnh phúc, chân phúc, vĩnh phúc, vượt thoát khỏi cái thể lý bị điều kiện hóa này và những khát đòi mang tính thú vật này, Thiện là gì, Ác là gì, Sự tồn tại yếu ớt và ngắn ngủi này là để làm-gì và làm-thế-nào để làm-nó. Cuốn sách cũng chưa đề cập sâu đến một việc: con đường tinh thần hầu như phải đánh đổi mọi vật chất và thỏa mãn giác quan. Quả thực đó là hành trình bí mật của mỗi cá nhân, không thể đại chúng hóa và không thể thừa kế trái quả/mục đích. Các phẩm tính của con đường tinh thần đòi hỏi một phẩm chất cao thượng vô hình ở bên trong: tính khiêm cung, sự giản dị cùng tột của ăn mặc ở, sự kỷ luật thu thúc, sự kiên định, tính trung thực, và nhiều thứ khác. Một điểm khác: Con người được trình bày như một động vật xã hội do đó cần phải có sự tương liên với thế giới (người khác) nếu muốn hiểu biết chính mình. Tuy vậy điều này không hoàn toàn được ủng hộ bởi một vài con đường tinh thần cổ xưa. Có những tôn giáo giới hạn các tấm gương người-khác ở những người-khác ưu tú hơn là một hàng xóm bất kỳ. Quả thực một hàng xóm bất kỳ có thể nói được điều gì trung thực về anh nếu người ấy không có một trình độ chí ít ngang bằng anh, hay tốt hơn là vượt xa anh? Nói cách khác, ở lĩnh vực tri thức thứ ba, một cá nhân tầm cầu con đường tinh thần thực sự cần phân biệt được những tấm gương người-khác không có trình độ ngang hàng hoặc cao hơn mình, vốn có vô vạn ý kiến với đủ mọi mục đích, và những tấm gương người-khác có mục đích chung với mình, có trình độ tốt hơn là vượt xa mình. Và không nhất thiết một cá nhân tầm cầu hạnh phúc phải làm việc chung với thế giới, có những tôn giáo thậm chí khuyến khích xa lánh thế giới cho đến khi xong việc hoàn toàn. Hạnh phúc của con đường tinh thần không dính dáng gì đến người-khác, hay thế giới, nó hoàn toàn là một con đường độc lập, tự chủ và trái quả của nó giải phóng chính cá nhân đi-nó-tự-thân. Mỗi con đường tinh thần có thể hứa hẹn một mục đích khác nhau, các tôn giáo dường như không hề giống nhau, cách thức cũng thế. Việc quy chụp rằng tất cả tôn giáo đều giống nhau là một phép khái quát hóa tồi tệ, bỏ qua một rủi ro, lỡ như đích đến của cái này xa hơn cái kia thì sao? Có thể tất cả tôn giáo dạy hướng thượng, nhưng nếu một số dạy đi lên đến tầng thứ năm, một số khác dạy lên đến tầng chín và một số khác dạy đến tầng cuối cùng thì sao? Mục đích của Ki Tô giáo chẳng hề tương ưng với mục đích của Phật Giáo, nhưng tác giả, như những tác giả theo chủ nghĩa chiết trung tôn giáo muốn tin rằng tất cả mọi truyền thống đều dẫn đến cùng một mục đích đã dẫn các văn bản tôn giáo khác nhau cho mục tiêu đả phá chủ nghĩa duy vật luận. Chủ nghĩa duy vật luận có thể bị đả phá và nó nên như thế, vì nó thất bại trong lời hứa mang đến cho một cá nhân tự do về tinh thần, một hạnh phúc cao hơn những hạnh phúc thông qua giác quan. Không có nghĩa là Chủ nghĩa chiết trung tôn giáo với hơi hướm lãng mạn hóa là đúng. Dẫu vậy, một lần nữa, cuốn sách thực sự rất đáng học hỏi ở những lập luận và nét độc đáo của chủ đề khai triển, một số lý thuyết có thể giúp ích: các vấn đề hội tụ đối lại với các vấn đề phân kỳ, khoa học thao túng đối lại với khoa học hiểu biết, khoa học chỉ dẫn và khoa học miêu tả, bốn lãnh vực tri thức, tầm quan trọng của tự-ý-thức, vấn đề của lý luận và đức tin, ngoài ra nếu có thể, tôi nghĩ những phần cần được đào sâu hơn là các giới hạn của trí năng lẫn giác quan có thể được mở rộng như thế nào, nên xác định các ranh giới nào cho cái thực-biết và làm thế nào để từ tin chuyển thành -biết-. Và tốt nhất nên tránh so sánh các tôn giáo như thể chúng là những chỉ dẫn khác nhau về bề ngoài/ ngôn ngữ song giống nhau về mục tiêu và phương pháp. Có lẽ đây là những chủ đề quá giới hạn của cuốn sách và tôi đang đòi hỏi quá nhiều.
Hình ảnh đánh giá thực tế